Đáp:
Những năm gần đây việc giáo dục sức khỏe giới tính đã có nhiều cải tiến lớn trong phương pháp nạo phá thai: không còn dùng phương pháp “nạo gượng”, mà là dùng phương pháp “hút bằng phụ áp”. Tuy vậy không tránh được việc phải dùng dụng cụ nong bằng kim loại để nong rộng cổ tử cung; dùng que kim loại để dò hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung; dùng Ống hút bằng kim loại đê hút phôi thai và đê’ cuông rốn; cuối cùng còn phải dùng nuôi nạo bằng kim loại để nạo sạch khoang tử cung.
Tìm hiểu thêm tại: http://yhocvietnam.com.vn/suc-khoe-gioi-tinh/nam-hoc/dia-chi-chua-benh-xuat-tinh-som-uy-tin-tai-ha-noi/
Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, đều phải dùng dụng cụ bằng kim loại đưa vào đưa ra, tất nhiên có khả năng làm xước tử cung, thậm chí tạo thành lỗ rách ở tử cung. Ngoài ra, khi tổ chức đế cuống rôh nằm ớ vách tử cung, bị ống hút phụ áp hút ra khỏi vách tử cung, sẽ khiên các mạch máu trên bề mặt vách tử cung bị vỡ ra.
Nếu như đê’ cuống rốn không lấy ra được nhanh, sẽ ảnh hưởng đêh sự co bóp của tử cung, do đó có thể làm cho các mạch máu không liền lại, trong quá trình thủ thuật đó sẽ bị mât nhiều máu. Vả lại, nêu trước đó, người bệnh đã có viêm bộ phận sinh dục như viêm âm đạo, viêm cô tử cung chưa được chữa khỏi, hoặc trong quá trình thủ thuật không nghiêm chinh, thực hiện vô trùng đúng với quy định, thì những dụng cụ đưa vào đưa ra rất có thê đưa vi khuẩn vào khoang tử cung gây nhiễm trùng.
Ngoài ra, việc nạo hút thai còn có khả năng để lại di chứng, nhất là đối với các trường hợp đã qua nạo hút nhiều lẩn, nguy hại sẽ không nhỏ, có thể xuất hiện các tình huống sau:
Dính khoang tử cung: Nếu nạo hút quá mức, lớp gốc ở màng trong tử cung bị tổn thương, mặt màng có thể dính vào nhau sẽ làm ảnh hưởng đên sự vận hành của tinh trùng và làm cho trứng đã thụ thai khó bám vào, do đó hậu quả thường thấy nhất là không thụ thai được, hoặc có thai cũng dễ sảy thai.
Tùy thuộc vào mức độ tổn thương của niêm mạc tử cung còn dẫn đêín sự thay đổi của kinh nguyệt. Nếu tổn thương không nhiều, chỉ có một bộ phận nào đó ở khoang tử cung bị dính, thường chỉ làm giảm lượng kinh nguyệt hoặc gây ra xuât huyết không theo một quy tắc nào. Nếu tổn thương nghiêm trọng, mặt dính ở khoang tử cung rộng, sẽ gây bế kinh lâu dài. Nếu cô từ cung bị dính, máu hành kinh không ra ngoài được mà chảy ngược vào bụng sẽ gây ra bế kinh lâu dài và đau bụng có tính châ’t chu kỳ.
Hiện tượng không thụ thai: Sau khi nạo phá thai, không thụ thai lại được nữa, ngoài nguyên nhân dính khoang tử cung đã nói trên, còn có khả năng do ông dẫn trứng bị viêm. Khi thủ thuật bị viêm nhiễm, chứng viêm có thể từ nội mạc tử cung lan sang ống dẫn trứng, làm cho khoang ổng dẫn trứng bị dính, gây ra tắc; cũng có khả năng do ống limpha và mạch máu ở vách tử cung khuyêch tán ra tới tổ chức liên kết cạnh tử cung, làm cho xung quanh ống dẫn trứng viêm, miệng Ống dẫn trứng dính vào nhau và kẹt lại.
Dù cho nguyên nhân ống dẫn trứng tắc hay do miệng ông dẫn trứng bịt lại đều cản trở tinh trùng và trứng gặp nhau, tât nhiên dẫn đến không còn thụ thai được.
Sảy thai hoặc đẻ non: Khi nạo phá thai, nhất là khi nạo, phải dùng đến kìm để lây thai ra, nếu miệng cổ tử cung bị dụng cụ nới rộng làm rách, thì sau đó, hễ có thai là sau 12 tuần sẽ bị sảy thai.
Vì sao lại sảy thai muộn mà không sảy thai sớm? Then chốt của vân đề là ở chỗ, miệng cô tử cung sau khi bị rách sẽ lỏng ra, mâ’t công năng “cơ vòng”, đổng thời không giữ được trạng thái “đóng khóa” trong điều kiện áp lực cao.
Khi có thai, ở thời kỳ đẩu do thai chứa trong tử cung chưa lớn, áp lực trong tử cung thâ’p thì còn ứng phó được. Nhưng thai dần dần phát triển, nước ô! nhiều lên, thai nhi lớn hơn, áp lực trong khoang tử cung ngày càng tăng, miệng trong cổ tử cung bị lỏng không chống đỡ được, bọc bào thai trồi vào Ống CỔ tử cung, làm cho ống cổ tử cung dẩn dần trương rộng ra và co ngắn lại, đến mức nàơ đó, màng bào thai vỡ ra và không tránh được tình trạng sảy thai. Vì vậy, thai sẽ không thế phát triển cho đến lúc đủ tháng.
Đê cuống rốn bị dính hoặc cắm sâu vào: Khi tử cung bị nạo quá sâu hoặc bị nạo hút nhiều lần, nội mạc tử cung bị tổn thương và teo lại. Đến lẩn có thai tiếp sau đó, nội mạc tử cung do đã bị tổn thương và teo lại nên thường không thể lành lặn lại, phải bong ra lớp màng đáy để tiếp nhận phôi bào cây vào, màng tử cung bong ra phát dục không tốt, lông tơ ở bên ngoài phôi bào sẽ cây sâu vào, thậm chí còn xâm phạm tới lóp cơ bên dưới của màng tử cung.
Như vậy, đê’cuông rôh được hình thành sẽ không dễ hoặc căn bản không thể tách khỏi vách tử cung một cách tự nhiên. Thai nhi sau khi hình thành, phần bị dính hoặc phần cây sâu vào đế cuông rôn không tách ra hết, không đưa ra được gây ảnh hưởng đêh sự co bóp của tử cung, còn ở chỗ tách ra được ở vách tử cung cũng thành một hõm máu chảy ra, tâ’t nhiên sẽ gây xuât huyết nhiều. Nếu chỗ dính liền của đê’cuông rôh thì còn có thể bóc ra, còn nếu đế cuống rốn cắm vào thì chỉ có cách cắt bỏ tử cung mới giải quyết được.
Như vậy, việc nạo phá thai có thể gây nhiều di chứng. Vì vậy, không thể coi việc nạo phá thai là chuyện bình thường mà đó là việc tối quan trọng và phải hết sức cân nhắc. Phải sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn, hợp lý, hết sức tránh việc nạo phá thai gây nhiều hậu quả xâu.
Xem thêm: Hỏi: Hậu quả của việc mang thai sớm ngoài ý muốn xảy ra ở lứa tuổi VTN là gì?